Trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng sôi nổi, bước chân Đại tướng đã in dấu trên mọi chiến trường,gắn bó với nhiều miền quê của Tổ quốc, đảm nhận nhiều trọng trách lớn của Đảng, Nhà nước và Quân đội nhưng trái tim Đại
tướng bao giờ cũng tha
thiết với đồng bào, đồng chí và bà con cô bác ở quê nhà. Với
quê hương, Đại tướng luôn dành những tình cảm chân thành,sâu đậm và sự quan tâm
đặc biệt. Lúc sinh thời Đại tướng đã tâm sự “Quảng
Bình là nhà tôi, khi nào rảnh việc nước thì tôi về nhà”. Dù
việc nước với bao bộn bề nhưng Đại tướng vẫn giành thời gian để nhiều lần được
về thăm quê, đồng thời thường xuyên theo dõi và có hướng chỉ đạo từng bước
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của tỉnh nhà.
Bước chân của Đại tướng đến đâu là mặn
nồng đến đó, với những lời dặn dò chân tình, sâu sắc để lại trong lòng nhân
dân, cán bộ, đảng viên chiến sĩ lực lượng vũ trang và anh hùng lao động nhiều
tình cảm sâu lắng. Trong tim Đại tướng luôn chỉ có một mong muốn, đó là: Quê
hương Quảng Bình một thời nổi danh “Hai giỏi” sẽ mãi mãi vươn lên, tiến đến dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Năm 1962, Đại tướng về thăm quê, đi
thăm xã Cảnh Dương của huyện Quảng Trạch. Đại tướng biểu dương những thành
tích trong chiến đấu, sản xuất của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân
Quảng Trạch nói chung và xã Cảnh Dương nói riêng. Đại tướng căn dặn,
Đảng bộ và nhân dân Quảng Trạch phải nêu cao tinh thần đoàn kết, khắc
phục khó khăn, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp
cách mạng trong tình hình mới.
Nhớ lại những ngày đế quốc Mỹ leo
thang đánh phá miền Bắc, trong đó có Quảng Bình, tháng 5 năm 1965, Đại tướng đã
điện thoại chỉ đạo, căn dặn quân và dân Quảng Bình phải: phối hợp thật tốt;
đánh thật tốt; tránh thật tốt; các lực lượng chiến đấu, phục vụ chiến đấu, lực
lượng an ninh thì ở lại, còn các cơ quan, xí nghiệp, nhân dân phải sơ tán tránh
mọi tổn thất... nhờ đó mà quân và dân Quảng Bình đã không bị bất ngờ, chủ động
đánh thắng trận đầu, bắn cháy 04 máy bay của đế quốc Mỹ, bắt sống 01 phi công
Mỹ, các cơ quan, đơn vị và nhân dân Quảng Bình nói chung, Đồng Hới nói riêng
được an toàn, giảm thiểu những thiệt hại do không kích của đế quốc Mỹ gây ra.
Trong những năm tháng chiến tranh,
mảnh đất Quảng Bình đã hứng chịu biết bao bom đạn của kẻ thù, song người dân
Quảng Bình đã cùng với cả nước viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc. Cứ
mỗi lần có chiến công, mỗi lần có đoàn đại biểu Quảng Bình lập được chiến công
xuất sắc được ra báo công với Chính phủ, với Bác Hồ là Đại tướng đến động viên,
khen ngợi và căn dặn Quảng Bình phải trở thành một tỉnh gương mẫu, đi đầu trong
cả nước.
Khi cuộc chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ diễn ra ác liệt nhất, vào ngày mồng một Tết Đinh Mùi (4/02/1967), sau
khi hợp tác xã Quang Phú được Nhà nước phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lao
động năm 1966, Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm xã Quang Phú (Đồng Hới). Nói
chuyện với Đảng bộ và nhân dân Quang Phú, Đại tướng biểu dương thành tích của
hợp tác xã: “Vừa qua Quốc hội, Chính phủ tặng cho hợp tác xã Quang Phú danh
hiệu Anh hùng.Các đồng chí và bà con xã viên đã sản xuất tốt nhưng phải sản
xuất tốt hơn nữa; phòng không nhân dân, chiến đấu chống Mỹ, vận tải và một số
công tác tốt nhưng phải tốt hơn nữa. Hiện nay đã anh hùng rồi nhưng làm thế nào
giữ và anh hùng lần thứ hai nữa...”. Phát huy truyền thống anh hùng trong sản
xuất, nhân dân Quang Phú đã nỗ lực phấn đấu, đến năm 1972 Quang Phú lại được
phong tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân như Đại tướng mong đợi.
Năm 1967, sau chiến công bắn rơi máy
bay Mỹ ngày 8/3/1967, Bác Hồ gửi 07 huy hiệu của Người thưởng cho 07 cô
gái Cảnh Dương dũng cảm; chị Trương Thị Gấm - nữ dân quân trực chiến xã
Cảnh Dương, đại diện cho cán bộ chiến sỹ dân quân xã Cảnh Dương (cầm theo
1 mảnh xác máy bay) ra Thủ đô Hà Nội báo công với Đại tướng. Đại tướng
khen ngợi, biểu dương tinh thần chiến đấu quả cảm của đội dân quân xã
Cảnh Dương, cũng như tinh thần chiến đấu của quân và dân Quảng Trạch
góp phần đánh thắng đế quốc Mỹ leo thang ném bom phá hoại miền Bắc
lần thứ nhất (1965 - 1968).
Năm 1973, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có chuyến đi khảo sát đường Trường Sơn. Khởi đầu
từ đường 9 theo đường 24 ra đường 20 - Quyết Thắng dọc theo các trọng điểm: dốc
Chà Là, đèo Phu La Nhích, ngầm Ta Lê, cua chữ A, dốc 68... nhân chuyến đi này, Đại tướng đã đến thăm, gặp gỡ và động viên anh
chị em công nhân Đội vận tải Sông Gianh tại xã Quảng Thuận đã có nhiều đóng
góp quan trọng làm nên thắng lợi của Chiến dịch Hòn La (5/1972 -
01/1973). Đại tướng hỏi thăm, động viên, căn dặn anh chị em công nhân ra
sức thi đua, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quan trọng, đảm bảo thông
tuyến, góp phần cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Thực
hiện lời căn dặn của Đại tướng, quân và dân Quảng Trạch nêu cao khẩu
hiệu “mỗi người dân là một chiến sỹ trên mặt trận giao thông”, “mặt
đường, mặt nước là chiến trường, tàu thuyền, phà xe là vũ khí”không
quản ngày đêm lao động, khẩn trương thông xe, thông phà, thông tuyến,
đảm bảo huyết mạch giao thông, vận chuyển chi viện cho chiến trường
Miền Nam.
Vào những năm 1980, khi đất nước bắt
đầu bước vào thời kỳ đổi mới, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Những lần
về thăm quê, Đại tướng luôn dành nhiều thời gian để thăm những điển hình làm ăn
tốt ở Quảng Bình và động viên mọi người học hỏi làm theo.
Tháng 3 năm 1985, Đại tướng về
thăm, làm việc với huyện Quảng Trạch, đi thăm xã Cảnh Dương, Đại
tướng đã ân cần thăm hỏi mọi mặt, từ tình hình chính trị, kinh tế
đến đời sống xã hội và lưu tâm một số mặt chưa làm được của huyện
nhà, đồng thời dặn dò một số vấn đề quan trọng trong công tác xây
dựng và củng cố tổ chức Đảng, chăm lo đời sống cho nhân dân, tập
trung chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng khai thác và
phát huy thế mạnh của huyện, quan tâm đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp.
Đại tướng nhắc nhở nên tập trung trồng rừng để phủ xanh đồi núi,
phục vụ đời sống nhân dân;
Trong lần về thăm quê năm 1990, sau
khi đến thăm khối cơ quan Mặt trận, Đoàn thể của
tỉnh, Đại tướng đã dành nhiều thời
gian để đến thăm, làm việc và trò chuyện với cán bộ Hội Nông dân tỉnh
nhà. Đại tướng nói: “Tôi làm quân sự nhưng từng là chuyên gia dân
cày nên rất quan tâm đến nông dân và công tác Hội Nông dân”. Đại tướng căn dặn:
“Quảng Bình trong chiến tranh là tuyến lửa, bị tàn phá nặng nề. Bây giờ hoà
bình rồi, nhưng Quảng Bình lại nằm trong vùng thiên tai khắc nghiệt, cát trắng,
gió Lào, nền nông nghiệp phụ thuộc vào tự nhiên, đời sống của bà con vì thế còn
rất khó khăn, nghèo khổ. Hội Nông dân phải nỗ lực hơn nữa để vươn lên xây dựng
Hội vững mạnh, làm tốt chức năng của mình, vận động bà con nông dân làm tốt
thuỷ lợi, thâm canh các loại cây con có hiệu quả kinh tế cao để xoá đói giảm
nghèo, vươn lên làm giàu. Đặc biệt, Hội phải giáo dục nông dân chống cho được
tư tưởng bảo thủ, phải tiếp thu khoa học kỹ thuật, áp dụng vào sản xuất để có
năng suất cao hơn. Làm thế nào để Hội phải là chỗ dựa vững chắc cho bà con nông
dân vươn lên…”
Năm 1992, trong chuyến về thăm quê sau
khi tỉnh Quảng Bình trở về địa giới cũ, Đại tướng đã có buổi làm việc và dành
cho lãnh đạo tỉnh những lời tâm sự chân tình: Tỉnh nhà mới lập lại, được Trung
ương hết sức giúp đỡ đó là thuận lợi lớn. Muốn ổn định tình hình trước hết phải
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, chăm lo gia đình chính sách,
gia đình neo đơn; yêu cầu mỗi huyện, mỗi xã phải kiểm tra lại mức sống của mỗi
gia đình để có biện pháp giúp đỡ cần thiết. Về kinh tế, muốn đi lên thì phải
phát triển kinh tế hàng hóa, xây dựng nền nông nghiệp toàn diện, nếu độc canh,
độc nông thì nghèo; nghiên cứu để phát triển kinh tế vùng gò đồi. Phải tăng
cường kinh tế đối ngoại... Đại tướng nhắc tỉnh nhiều về phát triển giáo dục -
đào tạo và khoa học công nghệ, chăm lo nguồn lực để phát triển bền vững, lâu
dài. Về công tác xây dựng Đảng, Đại tướng chỉ rõ: Phải chăm lo công tác tư
tưởng, lãnh đạo phải đảm bảo niềm tin cho nhân dân. Niềm tin bị xói mòn là điều
rất không tốt cho lãnh đạo. Cán bộ phải lấy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
mà rèn luyện, phấn đấu...
Năm 1998, về thăm quê hương, dù tuổi
già sức yếu, nhưng Đại tướng vẫn ra thăm cánh đồng lúa “thẳng cánh cò bay” của
xã Phong Thủy, nói chuyện với bà con nông dân đang thu hoạch lúa, Đại tướng ân
cần căn dặn: Phải luôn nỗ lực lao động sản xuất để giữ cho được danh hiệu “Gió
Đại Phong” như những năm tháng trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Tự hào là
quê hương giàu truyền thống văn hóa, cách mạng, cán bộ, nhân dân trong huyện
cần đoàn kết, phát huy truyền thống yêu nước, yêu quê hương của cha ông, để
không ngừng vun đắp cho sự lớn mạnh của huyện nhà.
Ra thăm dòng sông Kiến Giang - dòng
sông với câu hò khoan êm đềm, sâu lắng, đã từng đi vào giấc ngủ của Đại tướng
cũng như bao trẻ thơ, bao thế hệ, Đại tướng căn dặn lãnh đạo huyện phải có biện
pháp để giữ cho dòng sông mãi mãi xanh trong, mãi mãi trong lành, thơ mộng,
chống xói mòn, sạt lở và bảo vệ môi trường cảnh quan, xanh - sạch - đẹp và có
chỗ để nhân dân đứng hai bên bờ cổ vũ cho Lễ hội bơi thuyền truyền thống của
quê hương vào dịp kỷ niệm ngày Quốc khánh 2-9 hàng năm.
Năm 1999, Đại tướng lại
về thăm quê, đi thăm một số đơn vị, địa phương trong tỉnh, lần này tuy
tuổi đã cao nhưng Người vẫn đau đáu lo lắng cho dân, cho nước, cho quê
hương. Đại tướng đã hỏi cặn kẽ tình
hình nhân dân vùng cát hai huyện Lệ Thủy và Quảng Ninh, đây là vùng khó khăn
nhất từ xưa. Sau khi nghe báo cáo của huyện, Đại tướng đã biểu dương
việc tỉnh ta trong mấy năm qua, đã đầu tư một số dự án phát triển kinh tế
- xã hội vùng cát, nhất là xây dựng các tuyến đường ra biển và cho rằng đó là
việc làm sáng tạo, cần phát huy. Trong chuyến thăm quê lần này, Đại tướng về
thăm lại xã Quang Phú. Đại tướng dành thời gian thăm và nói chuyện với mẹ
Nghèng - Người được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi
mới. Mẹ Nghèng không biên chế, không hưởng lương, nhưng có đến 40 năm trồng
rừng chắn cát.
Đại tướng hỏi thăm chuyện làng, chuyện
xã, mừng Quang Phú ngày càng đổi mới và không quên dặn dò: “Bác Hồ nói vì lợi
ích mười năm trồng cây. Vì lợi ích trăm năm trồng người nên chúng ta phải trồng
nhiều rừng hơn nữa, phải trồng cây gây rừng phủ xanh đồi cát. Trồng rừng cho
con cháu đời sau hưởng lợi, hiệu quả của rừng phi lao chắn cát không phải ngày
một ngày hai mà mãi mãi”.
Đại tướng đặc biệt quan tâm đến công
tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực tương lai của đất nước. Một chuyện hết sức cảm động là, trong lần về thăm tỉnh ta tháng 8/1999,
đúng ngày sinh nhật Đại tướng. Theo chương trình có nhiều đoàn đại biểu đến
mừng thọ, nhưng được tin Trường THPT Đào Duy Từ kỷ niệm 40 năm thành lập, Đại
tướng đã dành gần trọn buổi sáng 25/8 để đến thăm trường. Khi biết trường có em
Trần Đức Long đạt giải học sinh giỏi quốc tế, Đại tướng đã cho gọi em lên lễ
đài chụp chung ảnh kỷ niệm, tặng hoa, tặng quà...
Năm 2002, về thăm quê, đến nói
chuyện với thầy và trò Trường Trung học phổ thông Chuyên Quảng Bình, Đại
tướng ân cần dặn dò thầy và trò nhà trường phải nhận thức “Tri thức là của
cải quý nhất của con người, của dân tộc và của nhân loại” và “chúc Trường Trung
học phổ thông Chuyên Quảng Bình ra sức phấn đấu, các cô giáo, thầy giáo dạy
giỏi, các em học sinh trai gái học giỏi, trở thành một trường chuyên gương mẫu,
đào tạo nhân tài cho tỉnh nhà và cả nước”. Trong dịp này, Đại tướng về thăm quê
hương trước ngày Tết độc lập đúng 10 ngày. Năm đó, huyện Lệ Thủy quyết định tổ chức lễ hội đua thuyền truyền thống 2/9 sớm hơn so với
mọi năm để đón Đại tướng. Hàng ngàn người dân Lệ Thủy bây giờ vẫn còn nhớ như
in hình ảnh Đại tướng đứng trên ca nô chạy dọc sông Kiến Giang, tay vẫy chào
mọi người. Dòng Kiến Giang lúc đó dậy sóng bởi tiếng hô vang “Hoan hô đại
tướng! Hoan hô đại tướng!”.
Những lần về thăm quê hương, lần nào
Đại tướng cũng nhắc nhở bà con họ hàng, con cháu ở An Xá, Lộc Thủy phải luôn
chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, cố gắng lao động sản xuất và học tập để xứng đáng với truyền thống yêu
nước của dòng họ, của quê hương. Đi thăm các vùng quê trong huyện Lệ Thủy, đến
đâu Đại tướng cũng nhắc nhở cán bộ chính quyền phải quan tâm đến đời sống của
nhân dân, biết yêu thương dân, biết khơi dậy sức mạnh của sự đoàn kết để chung
tay, góp sức xây dựng Lệ Thủy ngày càng giàu mạnh. Đại tướng chân tình nhắc nhở
bà con Lệ Thủy - nơi chôn nhau cắt rốn của Người: Trong mọi hoàn cảnh bà con
chúng ta phải luôn luôn cố gắng, không được đầu hàng trước hoàn cảnh và số
phận. Phải biết tự lực cánh sinh, không được chủ quan, ỷ lại. Dân giàu thì nước
mới mạnh, tự thân vận động là chính, ai cũng phải cố gắng vươn lên trên đôi
chân của chính mình.
Trong chuyến về thăm quê hương lần
cuối cùng vào tháng 11 năm 2004, các đồng chí lãnh đạo tỉnh mãi mãi không quên
lời tâm sự của Đại tướng: "Dù ở xa nhưng trái tim tôi vẫn hướng về
quê hương, có khá đầy đủ thông tin về Quảng Bình. Tỉnh nhà có những việc làm
tốt, tôi vui, nhưng cũng buồn khi tỉnh nhà có những chuyện chưa
hay…". Cũng trong chuyến về thăm quê lần này, khi biết cửa biển
Nhật Lệ bị bồi lắng, làm cạn dòng chảy, Đại tướng đã nhắc nhở lãnh đạo tỉnh
nghiên cứu tìm giải pháp khắc phục để ngư dân ra vào cửa biển an toàn. Đại
tướng băn khoăn khi biết có hiện tượng khai thác đá làm ảnh hưởng đến Di sản
thiên nhiên thế giới Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng và đề nghị tỉnh cần sớm
có quy hoạch tổng thể khu vực này.
Đại tướng đặc biệt quan tâm đến những
vấn đề chiến lược lâu dài của tỉnh. Trăn trở lớn nhất của Đại tướng là Quảng
Bình vẫn còn là tỉnh nghèo so với cả nước và người dân Quảng Bình phần lớn đang
còn nghèo. Làm gì để thoát nghèo, vươn lên hoà vào sự phát triển chung của cả
nước là vấn đề luôn được Đại tướng nhắc nhở trong những chuyến về thăm quê.
Những kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh, Đại
tướng đều có thư chúc mừng và những lời căn dặn chí tình. Tại Đại hội Đảng bộ
tỉnh Quảng Bình lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2005 - 2010), những lời căn dặn của Đại
tướng cũng là những vấn đề mang tính chiến lược và thiết thực đặt ra cho Đại
hội xem xét, quyết định: “Tôi mong Đại hội lần này hãy nhìn thẳng vào sự thật,
nêu cao tinh thần tự phê bình, phê bình, phát huy dân chủ, bàn bạc để thấy rõ
những nguyên nhân, đề ra những chủ trương, giải pháp đúng đắn, sát thực tiễn,
tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ trong kinh tế - xã hội và xây dựng Đảng. Tỉnh
Quảng Bình đã có truyền thống hết sức vẻ vang, trong kháng chiến đã được Bác Hồ
khen: “Quảng Bình chiến đấu giỏi, sản xuất cũng giỏi”. Phát huy truyền thống
đó, ngày nay chúng ta phải quyết tâm chiến thắng bằng được nghèo nàn lạc hậu,
vươn lên xây dựng cuộc sống mới ngày càng giàu mạnh, văn minh. Muốn vậy, tôi
thấy vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với tỉnh là phải không ngừng tăng cường
đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong nhân dân, trước hết là trong cấp uỷ. Phải
coi trọng công tác cán bộ, chú trọng bồi dưỡng đào tạo thế hệ trẻ; sử dụng
những cán bộ thực sự có đức, có tài”...
Thực hiện lời căn dặn của Đại tướng,
trong những năm qua, Đảng bộ, quân và dân Quảng Bình đã nêu cao ý chí tự lực,
tự cường, đoàn kết đồng lòng vượt qua những khó khăn, thử thách, tập trung huy
động mọi nguồn lực, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, quyết tâm đưa sự
nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh nhà ngày một đi lên, phấn đấu sớm thoát khỏi
tình trạng tỉnh nghèo như mong mỏi của Đại tướng.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh qua các thời kỳ, trên nền tảng vững chắc của tiến trình đổi mới, nhất
là kể từ ngày tái lập tỉnh đến nay, Quảng Bình đã có nhiều bước tiến vượt bậc,
đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng cả trong phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng - an ninh, công tác xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị.
Từ một nền kinh tế thuần nông, đến nay, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch mạnh theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó nông, lâm nghiệp và thủy
sản22,59%, công nghiệp - xây dựng 28,44% và dịch vụ 48,97%; Tốc độ tăng trưởng
tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh bình quân 5 năm (2016 - 2020) đạt 6,13%. Thu
ngân sách trên địa bàn duy trì mức tăng trưởng khá, bình quân 17,4% năm. Tổng
thu ngân sách giai đoạn 2016 - 2020 đạt 22.352 tỷ đồng. Từ một địa phương thường xuyên phải đối phó với thiếu đói lúc giáp hạt, nay
không những đã cân đối được nhu cầu tiêu dùng mà còn có khả năng sản xuất lương
thực hàng hoá.
Công nghiệp đã có bước phát triển,
nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp quy mô lớn được hình thành. Một số sản phẩm
công nghiệp đã khẳng định được thương hiệu và từng bước có chỗ đứng vững chắc
trên thị trường. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật của tỉnh được đầu tư ngày
càng đồng bộ, hiện đại. Từ một tỉnh có cơ sở hạ tầng yếu kém, đến nay Quảng
Bình đã có sân bay, cảng biển, đường sắt, đường bộ, hệ thống thuỷ lợi; các khu
kinh tế, khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu quốc tế đã và đang phát huy hiệu
quả, thu hút nhiều dự án đầu tư. Môi trường thu hút đầu tư ngày càng thông
thoáng, hấp dẫn, đã khơi dậy và phát huy mọi nguồn lực xã hội cho đầu tư phát
triển; các vùng kinh tế động lực được hình thành ngày càng rõ nét. Có thể nói,
đó thực sự là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh.
Du lịch từng bước trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn. Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng 2 lần được UNESCO công nhận là
Di sản thiên nhiên thế giới, với vương quốc hang động độc đáo, kỳ vĩ, làm say
đắm lòng người, đã và đang trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách trong nước
và quốc tế. Tổng số khách du lịch đến tỉnh giai đoạn 2016 - 2020 đạt 19,7 triệu
lượt khách; doanh thu tăng bình quân 9 - 10% năm.
Trên cơ sở đẩy mạnh phát triển kinh
tế, Đảng bộ và nhân dân Quảng Bình luôn chăm lo phát triển các lĩnh vực văn hóa
- xã hội. Chính vì vậy, các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân
dân, khoa học công nghệ, văn hóa, văn nghệ, báo chí, phát thanh - truyền hình,
thể dục, thể thao… ngày càng phát triển. Lần đầu tiên Quảng Bình có em học sinh
Nguyễn Thế Quỳnh đoạt hai huy chương vàng Olympic Vật lý quốc tế; có vận
động viên trở thành vận động viên thể thao nam đầu tiên của nước ta đạt đẳng
cấp quốc tế.
Công tác chăm sóc, hỗ trợ các đối
tượng chính sách xã hội, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển
kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa được đặc biệt quan tâm, đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân trong tỉnh không ngừng được cải thiện. Tỷ lệ
hộ nghèo toàn tỉnh giảm bình quân 2,1%/năm. Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo quyết liệt. Đến cuối năm 2020, toàn
tỉnh có 81/128 xã đạt nông thôn mới, đạt 61,72%, trong đó 12 xã đạt chuẩn nông
thôn mới nâng cao và 03 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. Bộ mặt của tỉnh từ
thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến bản, làng miền núi, vùng cao đang
từng ngày khởi sắc.
Sức mạnh tổng hợp của tỉnh nhà đã tăng
lên nhiều, tạo ra thế và lực mới cho tỉnh ta tiếp tục đi lên với nhiều triển
vọng tốt đẹp. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Năng
lực lãnh đạo của Đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của bộ máy chính
quyền và các tổ chức đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc và cả hệ thống chính trị
ngày được nâng cao. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” ngày
càng đi vào chiều sâu. Bộ máy hành chính từng bước được đổi mới theo hướng tinh
gọn, hiện đại, hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả. Tinh thần đoàn kết, nhất
trí trong toàn Đảng bộ và nhân dân được củng cố vững chắc, trở thành động lực
quan trọng để đưa Quảng Bình phát triển lên một tầm cao mới.
Ngôi nhà gắn bó với Đại tướng từ thuở
thiếu thời và là nơi Đại tướng từ giã mái ấm thân thương để bước chân ra đi làm
cách mạng nay đã được đầu tư tôn tạo, trở thành Khu Lưu niệm, thành nơi thăm
viếng, điểm di tích giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ hôm nay và
mai sau.
Với 103 tuổi đời, hơn 70 tuổi Đảng,
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có những cống hiến to lớn, đặc biệt xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của dân tộc. Trong lời điếu Lễ quốc tang của Đại tướng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đảng, Nhà nước và
Nhân dân ta đánh giá cao công lao to lớn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các thế
hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội ta suy tôn đồng chí là anh Cả của Quân đội nhân
dân Việt Nam. Con người, nhân cách và những cống hiến to lớn của Đồng chí in
đậm trong lòng nhân dân, là vị tướng của nhân dân, mãi mãi lưu danh trong lịch
sử dân tộc”.