Cách đây 110 năm, ngày 5/6/1911, tại bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn –
Gia Định (nay là TP Hồ Chí Minh) người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành khi
đó mới vừa tròn 21 tuổi tự giới thiệu là Văn Ba xin làm phụ bếp, đã rời Tổ quốc
trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, bắt đầu cuộc hành trình 30 năm ra đi tìm đường
cứu nước.
Nguyễn Tất Thành rất ngưỡng mộ và kính trọng lòng yêu
nước của các bậc tiền bối và sớm nhận ra con đường do những người đi trước mở
ra sẽ không giải phóng được dân tộc mà cần thiết phải có con đường mới phù hợp
với quy luật phát triển của lịch sử để giành lại độc lập, tự do cho dân
tộc. Người
quyết ra nước ngoài xem
nước Pháp và các nước độc lập phát triển như thế nào để trở về giúp đồng bào
ta, đất nước ta thoát khỏi cảnh lầm than nô lệ dưới ách áp bức của thực dân,
phong kiến.
Tại Mác-xây, ngày 15/9/1911,
Người viết thư gửi Bộ trưởng thuộc địa Pháp, ký tên Nguyễn Tất Thành, xin vào
học trường thuộc địa nhưng đã bị từ chối. Từ năm 1912, Nguyễn Tất Thành đi qua
một số nước châu Phi, châu Mỹ. Giữa năm 1913, Người đến nước Anh, tham gia nhiều
hoạt động ở đây cho đến giữa năm 1917 mới trở lại nước Pháp.
Đầu năm
1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, tháng 6/1919 thay mặt những
người Việt Nam yêu nước gửi bản yêu sách gồm 8 điểm (ký tên Nguyễn Ái Quốc) tới
hội nghị các nước đế quốc họp ở Véc-xây (nước Pháp), đòi chính phủ các nước họp
hội nghị phải thừa nhận quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc
Việt Nam. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được “Luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa” của Lênin. Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp tháng 12/1920,
Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng
sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Từ năm
1921 đến tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc triển khai nhiều hoạt động, tham gia
thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa, dự Đại hội lần thứ I và lần thứ
II của Đảng Cộng sản Pháp, sinh hoạt trong câu lạc bộ Pho-bua, làm chủ nhiệm kiêm
chủ bút báo “Người cùng khổ”…
Ngày
13/6/1923, Người rời nước Pháp đi Đức và ngày 22/6/1923 đi Liên Xô. Từ tháng
7/1923 đến tháng 10/1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong phong trào
cộng sản quốc tế, bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng thuộc địa. Người
hoạt động trong Quốc tế Nông dân; học tập tại trường Đại học Phương Đông; tham
gia Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản; tiếp tục viết nhiều sách báo tuyên
truyền cách mạng, hoàn thành tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”…
Từ khi
rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc) tháng 11/1924 đến tháng 2/1930, Nguyễn
Ái Quốc tích cực hoạt động, chuẩn bị các điều kiện tiến tới thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam. Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (tháng 6/1925),
mở các lớp huấn luyện cán bộ, xuất bản báo Thanh Niên (1925) và tác phẩm “Đường
cách mệnh” (1927). Hè năm 1927, khi tình hình cách mạng Trung Quốc có nhiều
biến động phức tạp, Nguyễn Ái Quốc lại đi Liên Xô, sau đó đi Đức tháng 11/1927,
rồi bí mật sang Pháp, đến nước Bỉ dự cuộc họp của Đại hội đồng liên đoàn chống
đế quốc (tháng 12/1927), rồi quay lại Đức, đi Thụy Sỹ, sang Italia. Tháng 7/1928,
Nguyễn Ái Quốc tới Xiêm (Thái Lan), rồi trở lại Trung Quốc vào cuối năm 1929.
Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc chủ
trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm
1930 đến năm 1941, tuy hoạt động ở nước ngoài nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ đạo
sát sao phong trào cách mạng trong nước. Trong khoảng thời gian ấy, Người có
lúc ở Liên Xô, Trung Quốc, từng bị kẻ thù bắt giam ở Hồng Kông. Cuối năm 1932,
Người được trả tự do, sau đó đến Liên Xô học tại trường Quốc tế Lê nin. Năm
1938, Người trở về Trung Quốc chủ yếu hoạt động ở vùng Quảng Tây. Ngày
28/1/1941, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã trở về Tổ quốc (Pác
Bó, Cao Bằng), trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người triệu tập Hội nghị
lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, xác định đường lối đấu tranh giải
phóng dân tộc, chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh, sáng lập Báo Việt Nam độc
lập, tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Tháng
5/1945, trước những chuyển biến mau lẹ của tình hình và yêu cầu của cách mạng,
Bác Hồ quyết định rời Pác Bó, Cao Bằng về Tân Trào, huyện Sơn Dương, Tuyên
Quang. Tại đây Người đã lãnh đạo tổ chức các sự kiện lịch sử trọng đại liên
quan trực tiếp đến vận mệnh dân tộc: Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng quyết
định chủ trương lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa, thành lập Ủy ban khởi nghĩa
toàn quốc, ra quân lệnh số 1 phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước; Quốc dân
Đại hội Tân Trào - Tiền thân của Quốc hội nước ta, bầu ra Ủy ban Giải phóng dân
tộc tức Chính phủ lâm thời do Bác Hồ làm Chủ tịch. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã tiến hành Tổng khởi nghĩa thắng lợi trong
toàn quốc, giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng
tháng Tám năm 1945, đã đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự
do, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm
chủ xã hội.
Phát
huy thành quả của Cách mạng tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta tiếp
tục vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại
trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; tiến hành công cuộc
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đưa đất nước từng
bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp
thực tiễn Việt Nam.
Kỷ niệm
110 năm, ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911-5/6/2021), chúng ta
luôn ghi nhớ đây là cột mốc quý, mốc son vàng của lịch sử dân
tộc, có ý nghĩa trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam. Nhớ về
Người, mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân phấn đấu đi theo con
đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn. Đồng thời, ra sức đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, biểu hiện bằng những
việc làm cụ thể, thiết thực trong công việc và đời sống hằng ngày; noi theo
tác phong giản dị, tinh thần cầu tiến, hoài bão cống hiến của Bác Hồ làm kim
chỉ nam cho suy nghĩ và hành động, biến việc học tập cuộc đời, sự nghiệp của
Bác thành mối quan tâm thường xuyên trong mỗi con Lạc cháu Hồng đất Việt, “Trên
làm gương mẫu mực, dưới tích cực làm theo”, củng cố niềm tin của nhân dân
đối với Đảng “Ý Đảng, lòng Dân”, góp phần thực hiện thắng lợi mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.